Thủ tướng Chính phủ vừa ký Quyết định số 71/2010/QĐ-TTg về việc ban hành Quy chế thí điểm đầu tư theo hình thức đối tác công - tư. KINH DOANH đã có cuộc trao đổi với bà Samantha Campbell, luật sư Công ty Luật Gide Loyrette Nouel về một số vấn đề liên quan đến loại hình đầu tư này tại Việt Nam.
Xin bà cho biết một vài nhận xét của mình về Quyết định 71/2010/QĐ-TTg của Thủ tướng Chính phủ về việc ban hành Quy chế thí điểm đầu tư theo hình thức đối tác công - tư (PPP) tại Việt Nam?
Nhu cầu hoàn thiện thể chế chính sách liên quan đến mô hình PPP của Việt Nam đã được nghiên cứu và thảo luận trong nhiều năm gần đây, và đặc biệt là trong năm 2010. Theo tôi, những chính sách này vẫn còn thiếu trong điều kiện của Việt Nam, nhưng hy vọng chúng sẽ là một liều thuốc hữu hiệu cho những nhu cầu tài chính để phát triển hạ tầng tại Việt Nam.
Theo như nhận định ban đầu, lý thuyết PPP có thể được hiểu rất rộng, bao trùm lên bất cứ hình thức hợp tác nào, giữa khu vực tư nhân và nhà nước, để phát triển hạ tầng và các dịch vụ công. Điều đó đã được thể hiện rõ trong định nghĩa "hình thức đầu tư PPP" ở ngay trong Quyết định này, trong đó cũng chỉ ra rằng sự hợp tác cần phải được dựa trên các hợp đồng.
Dựa vào định nghĩa này thì thật ra hình thức PPP không phải là mới ở Việt Nam. Một số dự án hạ tầng đã và đang được thực hiện dựa trên khung pháp lý của Nghị định 108, quy định về các hình thức Xây dựng - Vận hành - Chuyển giao (BOT), Xây dựng - Chuyển giao - Vận hành (BTO) và Xây dựng - Chuyển giao (BT).
Những hình thức đầu tư này đều là những hình thức của PPP. Tuy nhiên, trong lịch sử, những mô hình này không phải lúc nào cũng đem lại hiệu quả tối đa, nhất là đối với việc điều phối nguồn lực của Nhà nước và sử dụng cán cân thanh toán quốc gia. Do đó, yếu tố chính trong chính sách liên quan đến PPP chính là phải mở rộng thêm những khả năng khác để xây dựng các dự án hạ tầng trong hoàn cảnh hiện nay, khi Việt Nam đang cần phải huy động hàng chục, nếu không nói đến hàng trăm, hàng ngàn tỷ USD cho các dịch vụ công và hạ tầng trong những năm tới đây, trong lúc nguồn lực của Chính phủ Việt Nam và hỗ trợ phát triển là có hạn. Tôi cho rằng Quyết định này là bước tiến cơ bản đầu tư trong hướng này.
Nếu xét từ khía cạnh của cộng đồng doanh nghiệp quốc tế, thì trên thực tế hiện vẫn còn một số quan ngại trong việc thiếu khuôn khổ luật pháp cho phép các hình thức đầu tư khác của khu vực tư nhân vào cơ sở hạ tầng. Như trong lĩnh vực quản lý dài hạn hoặc nâng cấp cơ sở hạ tầng, mặc dù có rất ít, hoặc gần như không có yếu tố "xây dựng" trong những dự án này nhưng chi phí thực hiện có thể là rất lớn. Tôi lấy ví dụ trong các dự án nạo vét sông hồ hoặc dịch vụ nước thải và vệ sinh môi trường và sự không rõ ràng về luật pháp xung quanh khung pháp lý để thực hiện các dự án cho loại này thực sự là đã ngăn cản một số vốn đầu tư vào Việt Nam. Và trong trường hợp này thì Quy định mới đã được chào đón dù vẫn còn rất sơ lược về nội dung.
Bà có nhận xét gì về các lĩnh vực được cho phép thí điểm trong Quy chế này?
Vâng, có một loạt các lĩnh vực đã được cho phép trong Quy chế như giao thông, nước sạch, điện, y tế, môi trường... đã phản ánh nhu cầu mà Chính phủ Việt Nam muốn kêu gọi sự tham gia của khu vực tư nhân nhất. Điều này cho thấy nhu cầu của Việt Nam phát triển hạ tầng và dịch vụ công là rất lớn. Những lĩnh vực này nói chung là vẫn giống với các lĩnh vực đã quy định trong Nghị định 108 đối với mục đích đầu tư BOT, BTO và BT, nhưng có sự khác biệt đáng chú ý vì đã có thêm giao thông đô thị và y tế.
Ở các nước khác, đây là những lĩnh vực mà khu vực tư nhân làm tốt, có nhiều bí quyết, cũng như họ chính là chất xúc tác cho việc gọi vốn cho các dự án PPP. Tuy nhiên, sự tham gia vào các hình thức BOT, BTO hay BT có thể sẽ không nhận được sự đồng thuận cao nhất của khu vực này, đặc biệt khi cung cấp dịch vụ (ví dụ như điều hành và quản lý giao thông công cộng đô thị hay các dịch vụ nâng cấp và quản lý bệnh viện) cần được tính đến.
Chúng tôi mong muốn nhìn thấy một hình thức PPP khác được thực hiện sẽ phát triển kinh nghiệm thực tế như thế nào trong tất cả các lĩnh vực, dựa vào Quy chế thí điểm này.
Vậy Chính phủ Việt Nam nên làm gì để làm cho các dự án PPP trở nên hấp dẫn hơn đối với khu vực tư nhân?
Sự thiếu hoàn thiện thể chế lập pháp cũng chưa phải là nguyên nhân chính ngăn cản sự tham gia của thành phần kinh tế tư nhân vào các dự án PPP. Theo tôi, vấn đề quan trọng nhất chính là tính khả thi và khả năng phát triển của chính dự án đó đối với nhà đầu tư tư nhân.
Sự tính toán lợi nhuận ròng là vấn đề cốt lõi, cho dù có hay không có cơ chế vốn được thu xếp, những cuộc tranh luận dài giữa các cơ quan nhà nước và nhà đầu tư về mức độ rủi ro của dự án, hay những cam kết trợ giúp của Nhà nước thông qua các hình thức cung cấp (ví dụ như nguyên liệu thô) và đầu ra của sản phẩm sẽ tiếp tục làm nản lòng các nhà đầu tư.
Ngoài ra, bất cứ xem xét nào của Chính phủ về việc đảm nhận các rủi ro về việc hoán đổi nội tệ sẽ được nhà đầu tư hoan nghênh.
Cả Nghị định 108 và Quy chế thí điểm đều cho thấy rằng sự chuẩn bị đấu thầu cạnh tranh cần phải được chú trọng. Đây chính là một quá trình thực hành có hiệu quả nhất cho các bên. Nhà đầu tư cần phải biết họ đang đấu thầu loại dự án nào để có thể tham gia thầu hiệu quả nhất, và ngược lại, cũng phải biết tận dụng các ưu đãi của Nhà nước cho các mục tiêu cạnh tranh của mình.
Các yêu cầu về kỹ thuật, các cam kết của Chính phủ và bất cứ sự sắp xếp nguồn vốn nào cũng cần phải được thể hiện rõ bởi các báo cáo và các nghiên cứu đạt tiêu chuẩn quốc tế. Tài liệu đạt tiêu chuẩn cũng là một yếu tố hấp dẫn đối với khu vực tư nhân, để làm rõ những vấn đề còn băn khoăn và giảm thời gian thương thuyết.