Đã hơn 30 năm kể từ khi Luật Đầu tư nước ngoài tại Việt Nam chính thức được thông qua vào ngày 29/12/1987 nhằm thực hiện chính sách mở cửa thu hút vốn đầu tư từ nước ngoài vào Việt Nam, đến nay, khu vực vốn FDI đã trở thành một khu vực phát triển năng động nhất và ngày càng có nhiều đóng góp quan trọng cho phát triển kinh tế - xã hội của Việt Nam.
CHẶNG ĐƯỜNG THU HÚT FDI
“Luật Đầu tư nước ngoài 1987 với những tư tưởng cởi mở, thông thoáng, tầm nhìn xa đã mở đường cho thu hút FDI và thực sự phát huy hiệu quả, tạo đà cho sự phát triển của kinh tế Việt Nam trong các giai đoạn khó khăn. Luật Đầu tưy đã trở thành cầu nối vươn ra bên ngoài và cùng với những nhân tố khác đưa vị thế của Việt Nam nâng lên tầm cao mới”, ông Đỗ Nhất Hoàng, Cục trưởng Cục ĐTNN chia sẻ..
Chỉ trong hơn 2 năm kể từ năm 1988 đến tháng 5/1990, đã có 213 giấy phép đầu tư được cấp với tổng vốn đăng ký gần 1,8 tỷ USD. Dòng vốn FDI vào Việt Nam khi ấy vẫn còn thấp, bởi công cuộc Đổi mới của Việt Nam mới chập chững những bước đi đầu tiên, mặc khác Mỹ cũng còn đang bao vây, cấm vận nền kinh tế Việt Nam.
Sự bùng nổ khởi nguồn của làn sóng FDI thứ nhất vào Việt Nam là từ năm 1991. Khi đó, trong vòng 7 năm, đã có 2.230 dự án đăng ký đầu tư vào Việt Nam, với 16,244 tỷ USD vốn đăng ký và 12,98 tỷ USD vốn thực hiện, chỉ riêng năm 1997, vốn thực hiện đã đạt 3,115 tỷ USD, gấp 9,5 lần năm 1991.
Dòng vốn này đã chững lại trong giai đoạn 1998 - 2004, do tác động tiêu cực của cuộc khủng hoảng kinh tế khu vực. Năm 1998, vốn đầu tư FDI đăng ký chỉ là 5,099 tỷ USD; năm 2000 là 2,838 tỷ USD; năm 2004 là 4,547 tỷ USD.
Làn sóng thứ hai bắt đầu từ năm 2005, với vốn đăng ký 6,839 tỷ USD và vốn thực hiện 3,3 tỷ USD, sau đó bật tăng lên 12 tỷ USD trong năm 2006; 21 tỷ USD trong năm 2007 và từ đó tới nay, liên tục ở mức cao. Tuy có những thời điểm chững lại do tác động của khủng hoảng kinh tế toàn cầu, song làn sóng FDI thứ 3 được cho là đang dồn dập đổ tới Việt Nam.
Đến cuối năm 2017, đã có trên 35,88 tỷ USD vốn đầu tư nước ngoài đăng ký vào Việt Nam, đưa tổng vốn đầu tư nước ngoài đăng ký trong gần 30 năm qua lên gần 318,72 tỷ USD.
30 năm thu hút FDI của Việt Nam cũng gần như song trùng với hơn 3 thập kỷ Đổi mới của nền kinh tế. Không quá khó để thấy trong thành công hôm nay của kinh tế Việt Nam, có sự đóng góp lớn của khu vực FDI.
ĐÓNG GÓP ẤN TƯỢNG
Thứ nhất, đầu tư nước ngoài đã tạo ra một phương thức thu hút đầu tư mới, tác động lan tỏa góp phần thúc đẩy tăng trưởng kinh tế, “khơi dậy” và nâng cao hiệu quả sử dụng các nguồn lực trong nước.
Nhiều doanh nghiệp Việt Nam đã hưởng lợi trực tiếp khi cùng liên doanh, liên kết với các doanh nghiệp FDI, tham gia vào chuỗi sản xuất hàng hóa xuất khẩu. Trong hai năm gần đây, hơn 40 doanh nghiệp phụ trợ của Samsung là doanh nghiệp Việt Nam, đây là những tín hiệu đáng khích lệ. Nhiều doanh nghiệp Việt Nam khi có kế hoạch đầu tư ra nước ngoài đã nghiên cứu và học tập kinh nghiệm của các doanh nghiệp FDI thành công khi đầu tư vào Việt Nam.
Số liệu thống kê cho thấy, FDI đã đóng vai trò quan trọng trong việc bổ sung nguồn vốn đầu tư phát triển, chiếm 25% tổng vốn đầu tư toàn xã hội; tỷ trọng đóng góp của khu vực đầu tư nước ngoài trong GRDP chiếm khoảng 20%.
Thứ hai,khu vực FDI đã góp phần quan trọng vào đẩy mạnh xuất khẩu, chiếm đến 70% tổng kim ngạch xuất khẩu của Việt Nam.
Với sự xuất hiện của các đại gia công nghệ như Samsung, LG, Microsoft, Bosh, … kim ngạch xuất khẩu của Việt Nam đã tăng nhanh trong vòng 3-5 năm qua. Con số được Tổng cục Hải quan công bố, tính đến giữa tháng 12/2017, tổng kim ngạch xuất nhập khẩu của Việt Nam đã chạm ngưỡng 400 tỷ USD, trong đó, xuất khẩu là gần 204 tỷ USD. Chỉ riêng kim ngạch xuất khẩu nhóm hàng điện thoại, máy tính, điện tử và linh kiện các loại đạt kỷ lục với 71,6 tỷ USD.
Thứ ba, mặc dù vẫn được ưu tiên trong tiếp cận đất đai, tiền thuê đất, miễn giảm thuế, song khu vực này đóng góp đáng kể vào nguồn thu ngân sách với giá trị nộp ngân sách tăng từ 1,8 tỷ USD (giai đoạn 1994 - 2000) lên 14,2 tỷ USD (giai đoạn 2001 - 2010). Giai đoạn 2011 - 2015, thu ngân sách từ khu vực FDI đạt 23,7 tỷ USD, chiếm gần 14% tổng thu ngân sách; năm 2017, khu vực FDI đã đóng góp vào thu ngân sách gần 8 tỷ USD, chiếm 14,46% tổng thu ngân sách nhà nước.
Thứ tư, FDI đã thúc đẩy chuyển dịch cơ cấu kinh tế theo hướng tích cực. Hiện nay, có đến 58,2% lượng vốn FDI tập trung vào lĩnh vực công nghiệp chế biến chế tạo, tạo ra trên 50% giá trị sản xuất công nghiệp, góp phần hình thành một số ngành công nghiệp chủ lực của nền kinh tế như viễn thông, dầu khí, điện tử, công nghệ thông tin, thép, xi măng.
Những địa phương đứng đầu trong thu hút FDI đã thể hiện rõ rệt tác động của khu vực FDI đến cơ cấu kinh tế, thúc đẩy sự phát triển của các doanh nghiệp địa phương. Điển hình là tỉnh Bắc Ninh, nhờ thu hút có hiệu quả FDI mà chỉ trong vòng 5 năm gần đây đã biến đổi căn bản, từ tỉnh nông nghiệp vươn lên trở thành tỉnh công nghiệp, hiện nay nông nghiệp chỉ chiếm 8%, công nghiệp và dịch vụ chiến 82% cơ cấu kinh tế. Hay như tỉnh Bình Dương ở phía Nam, sau hơn 30 năm thu hút FDI, hiện nay, giá trị sản xuất công nghiệp toàn tỉnh năm 2016 đạt 530,412 tỷ đồng (năm 2017 tăng 10,98% so với 2016), tăng gấp 2,3 lần so với năm 2011.
Thứ năm, đầu tư nước ngoài đã đóng góp quan trọng trong việc giải quyết lao động và nâng cao chất lượng nguồn nhân lực, một nhân tố cơ bản cho hội nhập và phát triển.
Không thể phủ nhận khu vực FDI là động lực, chìa khóa then chốt, mang lại nhiều công ăn việc làm, giảm tình trạng dư thừa lao động, thiếu việc làm của Việt Nam thời kỳ những năm đầu 90. Từ một nước nông nghiệp lạc hậu, lao động chủ yếu là nông dân, kể từ khi có FDI, lực lượng lao động Việt Nam đã trưởng thành trên nhiều mặt: tác phong công nghiệp, văn hóa doanh nghiệp, trình độ kỹ năng chuyên môn kỹ thuật và quản lý, trình độ ngoại ngữ, … dần dần khẳng định vị thế trên bản đồ thị trường lao động có tay nghề của thế giới. Nhiều lao động sau thời gian làm việc cho các doanh nghiệp FDI đã trở thành những cán bộ giỏi, thạo tay nghề, đảm nhận vị trí quản lý nòng cốt của những tập đoàn, doanh nghiệp lớn Việt Nam.
Thứ sáu, khu vực FDI đã trực tiếp và gián tiếp đóng góp chuyển giao và phát triển công nghệ, tham gia và thúc đẩy tiến trình công nghiệp hóa tại Việt Nam.
Ông Mai Liêm Trực, nguyên Thứ trưởng Bộ Bưu chính - Viễn thông nhắc đến hợp đồng hợp tác kinh doanh (BCC) mà Tổng công ty Bưu chính - Viễn thông Việt Nam đã ký kết với Telstra (Australia) vào năm 1988, được cho là một trong những lựa chọn hợp lý và hiệu quả nhất vào thời bấy giờ, khi nguồn lực trong nước có hạn và đất nước còn bị bao vây, cấm vận. Sau BCC, đã có khoảng 500 dự án viễn thông lớn nhỏ được triển khai, hình thành một mạng lưới viễn thông hiện đại, đồng bộ cho Việt Nam.
Thứ bảy, đầu tư nước ngoài đã thúc đẩy không chỉ tiến trình hội nhập quốc tế sâu rộng, mà còn trở thành nhân tố đẩy nhanh công cuộc phát triển cơ sở hạ tầng kỹ thuật và xã hội, hoàn thiện hệ thống chính sách, văn bản pháp luật.
HẠN CHẾ CÒN TỒN TẠI
Không thể phủ nhận những đóng góp của đầu tư nước ngoài 30 năm qua là rất to lớn và ấn tượng, song để đạt được mục tiêu thu hút đầu tư nước ngoài chất lượng và hiệu quả, đóng góp cho phát triển bền vững đất nước, cần chỉ ra những bất cập, những dấu hỏi cần lời giải đáp.
Những hiện tượng trốn thuế, chuyển giá của một số doanh nghiệp FDI là những con sâu mà lâu nay chúng ta chưa thể loại trừ triệt để. Những dự án gây ô nhiễm môi trường, sử dụng công nghệ rác, công nghệ lạc hậu vẫn tìm cách thâm nhập vào Việt Nam để lại những hậu quả, ảnh hưởng nghiêm trọng đến mục tiêu phát triển bền vững. Nhiều vi phạm và tranh chấp lao động đã ảnh hưởng trực tiếp đến quyền lợi người lao động và gây thiệt hại cho doanh nghiệp.
Việc chuyển giao và tiếp thu công nghệ từ các doanh nghiệp FDI đã được đặt ra từ nhiều năm nay nhưng kết quả rất hạn chế, không như kỳ vọng.Hiệu ứng lan tỏa của các doanh nghiệp nước ngoài tới các doanh nghiệp trong nước, điển hình là phát triển công nghiệp phụ trợ và tham gia chuỗi giá trị sản xuất của các doanh nghiệp Việt Nam còn hạn chế. Trong thời kỳ đầu của đầu tư nước ngoài, phần lớn các dự án theo hình thức công ty liên doanh, song dần theo thời gian, các dự án liên doanh lại giảm dần...
Đầu tư nước ngoài vào nông nghiệp trong 30 năm qua không những không tăng trưởng mà còn chậm lai. Mặc dù Việt Nam là quốc gia có nhiều tiềm năng, lợi thế cho phát triển nông nghiệp, trong đó có nông nghiệp công nghệ cao, song vốn đầu tư nước ngoài vào nông nghiệp đến nay còn rất hạn chế, chỉ chiếm khoảng 1% tổng vốn đầu tư nước ngoài vào Việt Nam.
Với quyết tâm của Chính phủ đổi mới, kiến tạo và hành động, chúng ta đang có rất nhiều nỗ lực cải thiện môi trường đầu tư, kinh doanh, tạo hành lang pháp lý thuận lợi và minh bạch hơn cho doanh nghiệp, trong đó có doanh nghiệp đầu tư nước ngoài hoạt động và phát triển.
CƠ HỘI VÀ THÁCH THỨC THU HÚT FDI GIAI ĐOẠN MỚI
Để tiếp tục đẩy mạnh thu hút và sử dụng hiệu quả vốn FDI vào Việt Nam trong thời gian đến, đảm bảo nền kinh tế phát triển nhanh và bền vững, cần chú ý một số vấn đề như sau:
Các Hiệp định thương mại tự do và Hiệp đinh lớn trong khu vực
Những hiệp định thương mại không ngừng nâng cao sự hấp dẫn của Việt Nam trong vai trò là một điểm đến đầu tư, đặc biệt là các nhà đầu tư nhóm tìm kiếm hiệu quả, sẽ chọn Việt Nam làm địa bàn sản xuất hàng hóa và dịch vụ có hiệu quả tốt hơn và sau đó xuất khẩu cho các thị trường thứ ba.
Cách mạng công nghiệp 4.0
Sự xuất hiện của Cách mạng công nghiệp 4.0 đã có thể cảm nhận được khi các công ty lớn của Việt Nam đang cân nhắc làm thế nào để tự động hóa sản xuất, giảm nhân công và tăng năng suất. Tự động hóa dù là tương lai, nhưng tình trạng mất việc làm tay nghề thấp sẽ tăng, và FDI tìm kiếm hiệu quả sẽ suy giảm nếu Việt Nam chỉ dựa vào nhân công giá rẻ làm lợi thế cạnh tranh. Vì thế cần phải có chiến lược đa dạng hóa trong tạo việc làm và bảo đảm công ăn việc làm.
Đặt địa điểm sản xuất sang nước thứ ba
Việt Nam đã xây dựng được một “thương hiệu” tuy còn khiêm tốn nhưng tích cực trong lĩnh vực gia công, đặc biệt là gia công quy trình doanh nghiệp (BPO). Việt Nam có cơ hội để tận dụng “thương hiệu” này và chuyển dịch trọng tâm sang quản lý quy trình công nghiệp (BPM) và đẩy nhanh đa dạng hóa – đặc biệt trong khuyến khích các doanh nghiệp khởi nghiệp trong nước liên kết mạnh mẽ với những khách hàng gia công lớn toàn cầu. Tăng cường khả năng sử dụng ngoại ngữ cho sinh viên tốt nghiệp sẽ là chìa khóa để nắm bắt cơ hội về gia công trong tương lai.
Phát triển cụm, nhóm sản xuất theo định hướng giá trị
Doanh nghiệp Việt Nam cần nhận thức được về các cơ hội chủ yếu bằng cách tham gia vào một Cụm, nhóm sản xuất phù hợp với lĩnh vực hoạt động, dựa trên một thực tế chung là những doanh nghiệp trong Cụm, nhóm có khả năng cạnh tranh cao hơn so với các doanh nghiệp tương tự ở ngoài Cụm, nhóm.
Các phương thức đầu tư FDI mới (NFI)
Khi Việt Nam chuyển dịch theo hướng tăng giá trị gia tăng và tăng hội nhập với các chuỗi giá trị toàn cầu, thì NFI đóng vai trò nòng cốt bằng cách cho phép các tập đoàn đa quốc gia điều phối các hoạt động trong chuỗi giá trị toàn cầu, trong khi hỗ trợ cho các nhà cung ứng trong nước, nhờ đó giúp tăng cường liên kết giữa nhà cung ứng Việt Nam và chuỗi giá trị toàn cầu.
Phát triển theo hướng chuỗi giá trị toàn cầu đòi hỏi phải điều chỉnh chính sách cho phù hợp với diễn biến của chuỗi giá trị và điều chỉnh mục tiêu của nhà đầu tư. Các cơ hội NFI sẽ bị bỏ lỡ nếu khung pháp lý, chính sách không được củng cố.
Khả năng chống chịu và hạn chế rủi ro của chuỗi cung ứng
Tạo điều kiện cho doanh nghiệp trong nước hội nhập đầy đủ vào các chuỗi giá trị là cách làm đem đến kết quả có lợi cho cả nhà đầu tư trong và ngoài nước. Việc đảm bảo môi trường đầu tư thuận lợi, ít rủi ro đang đặt ra một thách thức rất lớn cho Việt Nam. Không chỉ về vấn đề cải cách chính sách phù hợp, cải thiện hệ thống cơ sở hạ tầng đồng bộ, bắt kịp với xu hướng thế giới, mà còn quan tâm đến vấn đề an ninh trật tự của xã hội.
Phát triển bền vững về môi trường
Cần nâng cao mục tiêu phân bổ việc sử dụng tài nguyên thiên nhiên khan hiếm hiệu quả, khai thác những công nghệ xanh mới nhất để khắc phục vấn đề ô nhiễm không khí và nước ở đô thị vốn đang ngày càng nghiêm trọng, tổ chức lại quy hoạch đất và nguồn lực theo cách tiếp cận thích ứng với khí hậu, đầu tư vào năng lượng tái tạo để giảm sản xuất điện than. Những nội dung này không chỉ giới hạn ở việc có chính sách sử dụng năng lượng hiệu quả, tiết kiệm mà còn phải thực hiện chính sách đó một cách hiệu quả.
Hồ Phước Ân - IPCC
(Bài viết có tham khảo thông tin từ một số nghiên cứu, bài báo trong nước và quốc tế)
TÀI LIỆU THAM KHẢO
-
Dự thảo Chiến lược và Định hướng Chiến lược Thu hút FDI thế hệ mới (2018 – 2030);
-
Loạt bài “30 năm FDI” trên Báo Đầu tư đạt Giải B Giải Báo chí Quốc gia 2017;
-
Sách trắng EURO 2018 – EUROCHAM;