Trong bối cảnh hiện nay, kinh tế vĩ mô của Việt Nam cũng “đang khó khăn hơn dự báo”, như nhận định của nhiều chuyên gia kinh tế. Liệu Việt Nam có thể rút ra bài học gì (hoặc gợi ý gì) từ việc điều chỉnh chính sách kinh tế vĩ mô của Nhật Bản?
Điều chỉnh chính sách kinh tế vĩ mô của Nhật Bản
Ngay từ giữa năm 2010, chính phủ Nhật đã đưa ra chiến lược tăng trưởng kinh tế 21 điểm, trong đó nhấn mạnh yếu tố năng suất lao động, ổn định nội nhu, tập trung vào 6 trọng tâm, gồm (i) phát triển năng lượng, (ii) đẩy mạnh y tế, du lịch, (iii) thúc đẩy phát triển khoa học kỹ thuật, (iv) tạo thêm công ăn việc làm tại các địa phương, (v) bồi dưỡng nhân tài và (vi) hướng về châu Á. Về đầu tư, hướng mạnh vào các nền kinh tế mới nổi, như Braxin, Nga, Ấn Độ, Trung Quốc (BRIC) và 1 số các quốc gia ASEAN (Việt Nam, Thái Lan, Inđônêxia…), đầu tư vào các ngành thân thiện với môi trường, sản xuất vật liệu mới, chăm sóc sức khỏe công đồng...
Để cụ thể hóa việc điều chỉnh chính sách nói trên, chính phủ Nhật Bản đã triển khai một số biện pháp sau:
1. Cải cách chính sách thuế (thông qua 15/12/2010), trong đó:
- Thuế thu nhập doanh nghiệp (CIT), giảm 5 % từ 40,69%, còn trên 35% (tương đương với Mĩ, 35%, cao hơn Anh, Trung Quốc và Việt Nam, lần lượt là: 28%, 25% và 25%). Riêng các doanh nghiệp nhỏ và vừa (SME), giảm từ mức 18% còn 15% (thấp hơn Việt Nam 10%)
- Áp dụng thuế môi trường, còn gọi là “thuế xanh” cho tất cả các doanh nghiệp vào tháng 10/2011 (dự kiến thu 35 tỷ Yên trong năm đầu áp dụng, 240 tỷ Yên khi thực hiện đầy đủ chính sách này).
- Thuế tiêu thụ tăng từ 5% đến 10% để bù đắp cho các khoản chi phúc lợi xã hội và tạo công ăn việc làm. Ước tính, thực hiện chính sách này, sẽ tạo ra trên 1,2 triệu công ăn việc làm mới cho người lao động.
2. Cố gắng duy trì giá trị đồng Yên không ở mức quá cao
Đồng Yên cao không chỉ làm giảm sức cạnh tranh của hàng xuất khẩu, mà còn ảnh hưởng không nhỏ đến giảm sản xuất trong nước. Tháng 10/2010, tỉ lệ xuất khẩu chỉ đạt 7,8%, thấp hơn dự báo (10,7%) và thấp hơn 3 tháng trước đó (9, 8 và 7 lần lượt là 14,3%, 15,5% và 23,5%). Lãi suất cơ bản giữ ở mức 0,1% cho đến tháng 9/2010, từ tháng 10 trở đi, chỉ còn 0,0% để thu hút lượng tiền vào thị trường, tiếp tục nới lỏng đồng Yên, cải thiện tình trạng giảm phát. Tuy nhiên, cho tới cuối tháng 2/2011, đồng Yên vẫn ở mức cao, 82,07\/ 1 US$.
3. Chú trọng chương trình an sinh xã hội:
Mặc dù, năm 2009 chương trình lương hưu đã vượt mức 10% GDP (tương đương gần 610 tỷ USD) của nước này, nhưng chính phủ Nhật vẫn đặc biệt quan tâm tới chính sách đối với trẻ em (từ trẻ sơ sinh đến 15 tuổi được trợ cấp 26.000 Yên/ tháng, tương đương với hơn 300 USD/tháng) và người cao tuổi (dự kiến tập trung vào 3 chương trình về lương hưu, y tế và bảo hiểm nuôi dưỡng sẽ tiêu tốn khoảng 20,7 ngàn tỷ Yên, tăng 25% vào năm 2025 so với năm 2011).
4. Tăng cường đầu tư ra nước ngoài, đặc biệt là cơ sở hạ tầng
Nhật Bản tích cực ủng hộ hình thức đầu tư phối hợp đối tác công – tư (PPP) trong các dự án phát triển hạ tầng ở nước (ước tính hàng trăm tỷ USD từ 2011 đến 2030), nhằm tạo điều kiện cho các tập đoàn có thêm công ăn việc làm, bán thiết bị máy móc ra bên ngoài và tránh được rủi ro trong xuất khẩu (do đồng Yên lên cao).
5. Giảm lượng cung cấp ODA (năm 2010 giảm là 7,9%) một cách có chọn lọc
Nhằm giảm thiểu gánh nặng về thuế cho khu vực dân cư, doanh nghiệp và giảm nợ công của chính phủ. Tuy nhiên, việc giảm thiểu này là có chọn lọc. Trường hợp của Việt Nam, là đối tác chiến lược, nên dòng vốn này vẫn tiếp tục tăng. Tới nay, ODA của Nhật Bản chiếm tới 30% tổng ODA của Việt Nam. Riêng năm 2011, Chính phủ Nhật đã cam kết viện trợ 1,76 tỷ USD, trong tổng số 7,9 tỷ USD của cộng đồng các nhà tài trợ quốc tế cho Việt Nam và tiếp tục là nhà tài trợ song phương lớn nhất.
6. Giảm thiểu rủi ro về nguyên liệu đầu vào cho công nghiệp bằng cách đa dạng hóa nguồn cung cấp
Các doanh nghiệp Nhật Bản đang phải chạy đua với các quốc gia phát triển khác và các nền kinh tế mới nổi trong tìm kiếm nguồn tài nguyên phục vụ cho tiêu dùng trong nước, kể cả chế biến xuất khẩu. Trung Quốc cung cấp tới 97% đất hiếm cho thế giới, song gây khó khăn để hạn chế nguồn cung cấp (dùng hàng rào kĩ thuật về thủ tục xuất khẩu) cho thị trường Nhật Bản. Nhật đã tìm kiếm nguồn nguyên liệu này từ Austraylia, Kazactan, Việt Nam….Hai công ty Toyota Tsusho và Sojitz đang triển khai đầu tư mỏ đất hiếm Đông Pao, ở tây bắc, tỉnh Lai Châu của Việt Nam, dự kiến triển khai sản xuất năm 2012. Ngoài ra, công ty Showa Denko KK cũng đặt một nhà máy chế biến đất hiếm ở ngoại thành Hà Nội (sản xuất, chế biến chất didymium, kết hợp với magnet làm nguyên liệu để sản xuất động cơ xe hơi, thân thiện với môi trường).
Bốn mặt tương phản của hai nền kinh tế Việt Nam và Nhật Bản
Vì hai nền kinh tế có khoảng cách quá lớn cả về qui mô, giá trị và trình độ phát triển, nên việc so sánh để rút kinh nghiệm, hoặc ngõ hầu áp dụng dù chỉ một phần, hay một ngành cụ thể, để cân nhắc trong việc điều chỉnh chính sách kinh tê vĩ mô của ta, chắc chắn là rất khó. Dù rằng, mọi so sánh đều “khập khiễng”, ở đây chỉ xin nêu một số mặt rất tương phản hiện tại giữa 2 nền kinh tế, vắn tắt như sau:
a) Việt Nam đang đối phó với áp lực lạm phát cao (trên 2 con số), trong khi Nhật Bản đang nằm trong tình trạng giảm phát – deflation (một tình trạng trái ngược với lạm phát, nhưng vẫn nguy hiểm với nền kinh tế, ảnh hưởng tới lĩnh vực xuất khẩu, sức tiêu thụ nội địa giảm, sản xuất đình đốn…);
b) Việt Nam đang tồn tại 2 tỉ giá chuyển đổi (tỉ giá liên ngân hàng và tỉ giá ngoài hệ thống này, gọi tắt là ti giá thị trường hay “chợ đen”; trong khi Nhật Bản chỉ có 1 tỉ giá chính thức do ngân hàng Nhật Bản công bố (và được đăng tải hàng ngày trên phương tiện thông tin đại chúng);
c) Việt Nam trên thực tế đang tồn tại việc phương tiện thanh toán hàng hóa, dịch vụ…bằng ngoại tệ (hoặc thanh toán bằng VND, nhưng dùng ngoại tệ, chủ yếu bằng USD làm đồng tiền tính toán, nhất là các hợp đồng có giá trị lớn, như nhà đất, căn hộ…, trong khi Nhật Bản không có thực tế này, trừ các hợp đồng ngoại thương, có qui định trong điều khoản thanh toán.
d) Việt Nam đang phải nhập siêu, đặc biệt diễn ra nhiều năm và tập trung vào một thị trường (năm 2010, 90% nhập siêu từ Trung Quốc), chiếm tỉ lệ trên 12% GDP (2010), trong khi Nhật Bản lần đầu tiên thâm hụt cán cân xuất nhập khẩu, bị cho là kỷ lục vào cuối tháng 3/2009, ở mức 725,3 tỷ Yên (7,36 tỷ USD, tỉ giá vào thời điểm đó là 98 \/ 1US$), so với GDP của họ chỉ chiếm khoảng 0,15%, là không đáng kể…
Một vài suy nghĩ về điều chỉnh chính sách kinh tế vĩ mô của ta
Điều chỉnh chính sách kinh tế vĩ mô của ta không giống Nhật Bản, nên các thông tin ở trên cũng chỉ để tham khảo và suy ngẫm. Tuy nhiên, qua cách làm của Nhật Bản, có thể gợi ý cho ta thấy cần phải có cách tiếp cận “cả gói” (packaged approach), theo nghĩa cả kinh tế lẫn xã hội, cả trong nước lẫn ngoài nước.
Có điều đáng lưu ý là không nên chỉ tập trung các giải pháp kinh tế thuần túy (như điều chỉnh tỉ giá hay cắt giảm đầu tư công, vì chưa đủ để xử lý mối quan hệ với một loạt các nhân tố nữa, như lạm phát, lãi suất, chống đầu cơ ngoại tệ…), mà còn là vấn đề an sinh xã hội với lộ trình dài hạn, chứ không chỉ giải pháp tình thế, tuy rất cần và đáng trân trọng, như việc bù đắp 30.000 đồng, cho những hộ nghèo (dùng dưới mức 50 KW điện/ tháng).
Trong bối cảnh cụ thể hiện nay, vấn đề thu hút đầu tư trực tiếp nước ngoài (FDI), có lẽ đã đến lúc dừng việc “thi đua” lôi kéo các dự án lớn, nhưng công nghệ không tiên tiến, ảnh hưởng không tốt đến môi trường sống hoặc tiêu thụ nhiều năng lượng (vì tình trạng thiếu điện trầm trọng, đang làm bức xúc các dự án FDI, trong đó có các dự án của Nhật Bản đang triển khai).
Nhân đây, công tác xúc tiến đầu tư cũng cần lưu ý cơ hội thu hút các dự án tạo điều kiện cho ta tham gia vào chuỗi giá trị toàn cầu (từ nghiên cứu và phát triển R&D, đến khâu thiết kế, sản xuất, phân phối, marketing…, chứ không chỉ là lao động giản đơn, dù chi phí có thấp và cạnh tranh đến mấy. Đồng thời, cần có biện pháp thu hút mạnh hơn các dự án chuyển giao công nghệ, giúp nâng cao tính cạnh tranh của sản phẩm trên thị trường quốc tế và khu vực. Như thế, mới mong tạo được sức cạnh tranh lớn, tăng cao giá trị xuất khẩu, giảm nhập siêu, góp phần thiết thực điều chỉnh ổn định chính sách kinh tế vĩ mô.
Chính sách (dù là đã điều chỉnh) chỉ thực sự có tác dụng khi nó đạt được các mục tiêu đề ra (trước khi nó được ban hành). Do vậy, khả năng dự báo trước một cách sát thực về tình hình đang và sẽ diễn ra và sự nhất quán của việc thực thi chính sách kinh tế vĩ mô cần hết sức coi trọng. Hai nhân tố này sẽ tạo nên và giữ được lòng tin của doanh nghiệp, nhà đầu tư (cả trong và ngoài nước), cũng như của người dân. Bởi lẽ, không có lòng tin, sẽ không có chính sách nào đứng vững được cả.
Lê Hữu Quang Huy
Tham tán, Trưởng Bộ phận xúc tiến đầu tư
Đại sứ quán Việt Nam tại Nhật Bản